Nhận giải " Phim truyền hình được khán giả yêu thích nhất" 5/10/2012
Thứ Bảy, 20 tháng 10, 2012
Thứ Năm, 11 tháng 10, 2012
GIẬT MÌNH HOÀI NIỆM CHUYỆN NGÀY XƯA
(Hay sự tích về người sáng nghiệp dòng
họ Nguyễn Xuân ở An Trì)
Bút ký của Nguyễn Xuân Hải
Mãi đến mùa thu năm Nhâm Thìn (2012),tôi mới
có được cuốn Sơ thảo gia phả dòng họ Nguyễn Xuân .Cuốn gia phả do bác Nguyễn
Xuân Vĩnh dày công sưu tầm ,biên soạn
hơn chục năm trời và đã qua nhiều lần sửa chữa.Hồi bố Nguyễn Xuân Long còn sống,thỉnh thoảng anh em chúng tôi cũng
được người kể đôi điều về lịch sử ra đời dòng họ Nguyễn Xuân ở làng cổ An
Trì .Nhưng đó mới chỉ là những mẩu chuyện
truyền miệng từ đời trước sang đời sau mà bố tôi nhớ được.Những mẩu chuyện rời
rạc và chứa đựng nhiều điều bí ẩn .May thay,những điều bí ẩn đến mức ly kỳ đã
được bác tôi chép trong cuốn Sơ thảo gia phả này.Đó là những tư liệu khá hấp dẫn
và đáng tin cậy.Bởi lẽ bác tôi may mắn có được một cuốn ghi chép của cụ ông 4 đời Nguyễn Xuân Ước viết bằng chữ
Hán.Cụ Ước là một người học hành đỗ đạt, có tài thơ , được triều đình Nhà Nguyễn
từ đời vua Tự Đức bổ nhiệm việc trông coi
dân tình một vùng đất gồm mấy xã giữa huyện Vĩnh Lại tỉnh Hải Dương (nay
là Vĩnh Bảo-Hải Phòng).Sau một qúa trình kỳ công phục dựng những dòng chữ viết
trên giấy bản ,trang mờ,trang nát rồi dịch cuốn ghi chép Hán tự ấy, bác tôi đã dành tới 11 trang đầu của
cuốn gia phả thay lời dẫn viết về cụ tổ
Nguyễn Công Vọng-Người quyết định đổi họ Nguyễn Công thành họ Nguyễn Xuân sau
này.Đó là một quyết định đẫm nước mắt của một người đã chịu biết bao cay cực ,biết
bao mất mát trong suốt 40 năm lưu lạc
nơi đất khách quê người...
Sau khi được đọc ,được nghe kể lại cuộc đời
như trong chuyện cổ tích của người đã sáng lập ra dòng họ Nguyễn Xuân của mình,tôi quyết định
viết thêm đôi dòng về Cụ Nguyễn Công Vọng gắn với những biến động lịch sử của đất nước một thời tao loạn.Ngoài ra,cùng suy nghĩ với
bác Nguyễn XuânVĩnh, tôi bắt đầu nuôi dưỡng một niềm hy vọng thiêng liêng là sẽ
tìm lại được dòng họ Phan ở Thanh Hóa đã cưu mang cụ Nguyễn Công Vọng cách nay
đã hơn 200 năm .Xa hơn nữa là con cháu dòng họ Nguyễn Xuân phát
tích từ An Trì trang hôm nay sẽ có cơ may chắp nối liên lạc được với thế hệ cháu 7 hoặc 8 đời,hậu duệ của cụ Vọng còn
đang sinh sống tại một vùng quê ven biển
xứ Thanh hay nơi nào đó trên thế gian này...
* *
*
* Giấc mơ khoa bảng,nỗi buồn nho sinh...
(Chú ý:khi phát thanh viên đọc,phải bỏ các tít phụ mà thay bằng nhac không lời)
...Dòng
sông Vĩnh Tinh chảy từ phía mặt trời lặn, len lỏi qua bao làng xóm ,ruộng đồng
của huyện Vĩnh Lại ,châu Hạ Hồng tìm đường ra bể Đông, nơi mặt trời mọc.Đoạn chảy qua giữa huyện
, sông cuộn mình uốn thành ba khúc,không bờ ,tựa như cái nôi ,ôm trọn một ngôi làng cổ
mang cái tên thật bình lặng:An Trì trang . Thuở An Trì mới chỉ có hai xóm ,lơ thơ gần ba chục
nóc nhà, cư dân ở đây quen gọi nôm na là xóm trên , xóm dưới thì giữa làng còn có một gò đất sa bồi,cỏ
hoang rậm rạp,chim chóc hàng đàn,chồn cáo từng bầy, rắn rết cả lũ...Một con lộ
liên xã chạy từ tổng Hu Trì về tổng Hạ
Am ,gọi là đường cái Chợ Hạ vắt qua gò đất
giữa làng, mặc nhiên trở thành đường nối hai xóm nhỏ.Đường cái chợ Hạ vừa ra khỏi
đất An Trì ,gặp dòng Vĩnh Tinh và một cây cầu
do dân hai làng An Trì và Cúc Thủy hợp sức bắc qua.Bên này cầu có cái chợ tạm,dưới gốc một cây đa,chủ yếu bán
thóc ,bán gạo,nên dân trong vùng thường gọi là chợ Cầu Gạo.
Có đường cái quan chạy qua,có sông cận kề
tiện cho thuyền bè xuôi ngược,có chợ ven làng,sản vật tươi tốt là điều kiện thuận
lợi để cư dân An Trì đến được với nhiều vùng đất khác và sớm quan tâm đến việc
học hành khoa cử. Một tấm bia đá hiện còn được lưu giữ tại làng An Trì khắc tên một nho sinh dòng họ Nguyễn Đức học giỏi,đỗ đạt cao,làm đến chức Tư lễ giám
trong triều Lê Cảnh Hưng ( Lê Hiển Tông) giữa thế kỷ 18 là một minh chứng.
Cùng thời,con cháu một số dòng họ khác
trong làng cũng miệt mài sự học,nuôi dưỡng giấc mơ khoa bảng và có người đã đỗ
đầu trong một kỳ thi Hương do quan đốc học huyện Vĩnh Lại châu Hạ Hồng đứng ra
tổ chức. Đó là chàng trai dòng họ Nguyễn Công ở xóm trên.Vượt qua kỳ thi Hương
,chàng trai dòng họ Nguyễn Công tiếp tục
dùi mài kinh sử chuẩn bị văn bài cho kỳ thi Hội theo thông lệ sau đó vài
năm. Nhưng rồi giấc mơ khoa bảng của
chàng trai họ Nguyễn Công đã tan thành mây khói bởi thời thế bỗng chốc đổi
thay,gia cảnh gặp lúc sa cơ, bĩ vận...
Trở lại những trang sử đáng buồn của đất nước
thời ấy.Thời của vua Lê chúa Trịnh bước
đến giai đoạn suy tàn.Ông vua bù nhìn Lê Hiển Tông (1740-1786) nhu nhược không
hề quan tâm đến chính sự mà chỉ nơm nớp giữ sao cho yên ổn tấm thân trước sự lộng hành ngang ngược của ba đời chúa Trịnh. Trịnh Doanh (1740-1767) dẫu còn
trọng sự học và chủ trương chọn người thực
tài qua đường khoa cử ra làm quan nhưng
lại sớm qua đời ở tuổi 48. Trịnh Sâm lên ngôi chúa ,chẳng những không giữ được
nghiệp thịnh của chúa cha,mà đã liên tục phạm những sai lầm khiến các bậc hiền
tài thất vọng , muôn dân oán hận.Cuộc nội chiến Đàng Ngoài -Đàng Trong
kéo dài cả trăm năm ,hao người tốn của ,một lần nữa lại được Trịnh Sâm đẩy lên
đỉnh điểm bằng cuộc tấn công đánh chiếm đất Thuận Hóa của chúa Nguyễn Phúc Thuần
khiến trăm họ thêm một lần điêu linh,cơ khổ.Tiếp đó là thói xa hoa trụy lạc của Trịnh Sâm khiến phủ Chúa
trở thành chốn ăn chơi nhớp nhúa và đầy rẫy mưu mô hiểm ác.Sử cũ chép rằng chỉ
để chiều lòng người đẹp Đặng Thị Huệ mà
hàng năm Trịnh Sâm tổ chức những đêm hội
Long Trì đón Tết Trung Thu tốn kém
hàng ngàn lạng vàng.Và cũng vì quá sủng
ái bà Tuyên phi nhan sắc này mà Trịnh Sâm đã làm ngơ cho em trai và tình nhân của
thị Huệ là Đặng Mậu Lân và Huy quận công Hoàng Đình Bảo thỏa sức vơ vét của cải
, gây điều bạo ngược vô đạo khắp chốn kinh thành.Chính những hành động trái lẽ
trời,mất lòng người của Trịnh Sâm
là nguyên cớ tạo ra bão táp cung đình ,đẩy nhà Chúa sớm đến ngày
diệt vong.Trịnh Sâm bị bạo bệnh chết năm 1782.Trước đó, năm 1781, Trịnh Cán,con
trai của Trịnh Sâm và Đặng thị Huệ lên ngôi
khi chúa cha còn sống vẫn bị truất rồi chết thảm.Cùng năm , Tuyên phi Đặng Thị
Huệ bị phế xuống làm thứ dân và phải uống thuốc độc tự tử...Cuối cùng là
đám lính Tam phủ cậy công trừ họa Quận
Huy, lật đổ Trịnh Cán đưa Trịnh Tông lên thay ngôi chúa... trở thành một lũ
kiêu binh ngang ngược hoành hành khắp nơi ...
Làng An Trì xa thành Thăng Long hai ngày xe
ngựa nhưng những biến động chính trị ,xã hội
từ kinh kỳ cũng bị tác động ít
nhiều. Những bậc sinh đồ đang nuôi giấc mơ khoa bảng như chàng trai họ Nguyễn
Công trở nên bế tắc và thất vọng. Gần chục
năm đợi kỳ thi Hội mà không có, đám nho sinh trong vùng chỉ còn cách ngậm ngùi
bảo nhau :Theo gương cụ Trạng Nguyễn Bỉnh
Khiêm ở dưới Trung Am đời trước(1491-1585), vừa làm ruộng vừa mở lớp dạy học,
chờ thời.Ngặt nỗi ,cả làng An Trì ngày ấy mới có chừng ba chục hộ dân,nhà nào cũng đang oằn mình lo
những khoản đóng góp cho phủ Chúa nên con trẻ chẳng thể học hành.Đến lượt mình
chàng nho sinh Nguyễn Công đành phải chọn công việc cầm cày thay cầm bút.Công
việc đồng áng thật chẳng dễ dàng gì đối với những người nho sinh mà người đời
đã đặt thành vè:”Ai ơi đừng lấy học trò.Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm” .May
thay vẫn có cô thôn nữ cảm thông với người sĩ tử lỡ thời mà tình nguyện về làm
vợ chàng ,chung vai gánh đỡ khó khăn...
Có một sự trùng hợp ngẫu nhiên để nhớ : Con
trai đầu lòng của vợ chồng người nho
sinh Nguyễn Công làng An Trì sinh ra đúng vào năm Long Nhương tướng quân Nguyễn
Huệ nhà Tây Sơn đem quân từ Đàng Trong
ra Thăng Long lật nhào họ Trịnh(1786).Người
con trai thứ hai của họ ra đời vào năm Mậu Thân(1788),cũng là năm Bắc Bình
Vương Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc lần thứ 2 dẹp loạn lộng thần trong triều và củng
cố lại chính sự Bắc Hà. Mấy tháng sau-đầu xuân Kỷ Dậu (1789)trên ngôi Hoàng đế
Quang Trung, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc lần thứ 3 tiêu diệt 29 vạn quân xâm lược
Mãn Thanh ,đuổi ông vua bán nước Lê Chiêu Thống ra khỏi bờ cõi ,thu Đàng Trong ra Đàng Ngoài của non sông Đại Việt về một mối.
Tài dụng binh kiệt xuất và đức chiêu hiền
đãi sỹ trọng thị của vua Quang Trung
Nguyễn Huệ không chỉ tạo niềm tin được giúp nước cứu dân đối với nhiều chí sỹ ,danh tướng Bắc Hà lúc bấy giờ như Ngô Thì Nhậm,Phan Huy ích,Ngô
Văn Sở...mà còn nhen lại niềm hy vọng học hành khoa cử với các thế hệ nho sinh
đang khắc khoải đợi thời.Có lẽ vì thế mà người nho sỹ làng An Trì gửi gắm niềm
riêng vào việc đặt tên cho người con trai thứ 2 là CôngVọng chăng? Chỉ biết rằng suốt thời ấu thơ, dẫu gia cảnh
ngày một sa sút,anh em cậu bé Vọng vẫn được người cha dốc lòng dạy chữ Thánh hiền
,dạy đạo làm người quân tử...
Nhưng rồi niềm hy vọng lớn lao củacon dân
Đại Việt về sự đổi thay của đất nước dưới sự trị vì của vị Hoàng đế Tây Sơn
kinh bang tế thế bỗng chốc sụp đổ.Năm 1792 Quang Trung đột ngột qua đời ở tuổi
40 giữa lúc những cải cách lớn lao nhằm chấn hưng đất nước của ông còn dang dở.Vua
con Quang Toản ít tài không thể đương đầu nổi với chúa Nguyễn cuối cùng của Đàng Trong (Nguyễn
Ánh )mà người đời sau luận tội là đã“cõng rắn cắn gà nhà” .Sau mười năm nội chiến
tàn khốc,hơn một thế kỷ tiếp theo ,con dân Đại Việt phải chịu cảnh lầm than dưới
sự trị vì của triều vua mới họ Nguyễn” tội
nhiều,công ít”và sau đó là ách thống trị tàn bạo của bọn đế quốc ngoại bang.
Chưa hết buồn vì vận nước đến hồi bĩ cực thì
chàng nho sinh Nguyễn Công lại gánh nỗi đau mất mát trong nhà.Năm cậu bé Vọng vừa
tròn 7 tuổi thì người mẹ hiền thục tảo tần
từ bỏ cõi trần .Rồi liên tiếp mấy năm ông trời gieo họa:hạn hán , lũ lụt
,bão gió ...khiến khắp vùng mất mùa,nhà nhà đứt bữa...Người cha gồng mình trong
cảnh” gà trống nuôi con”thêm 7 năm thì sức
cùng lực kiệt cũng phải vĩnh viễn xa
lìa các con trong nước mắt.Đó là năm
1802 –năm cuối cùng của triều Tây Sơn ngắn
ngủi niềm vui ,năm bắt đầu của triều Nguyễn dằng dặc nỗi buồn.Cũng từ năm ấy ,ở
làng nhỏ An Trì ,hai đứa trẻ mồ côi cũng bắt đầu sống trong tháng ngày đói rách
cơ hàn...Những dòng chữ Hán của cụ Nguyễn Xuân Ước chép rằng:Từ khi cha mất , cứ
đến kỳ giáp hạt mấy anh em Công Vọng đều phải mang rá đi vay gạo khắp làng .Và
mỗi độ đông về anh em họ lại phải gom lá khô kết lại từng tấm trải dưới đất làm
chiếu,phủ lên người làm chăn chống chọi với cái lạnh thấu xương...
Cho đến một ngày đầu xuân, nhìn bồ thóc
trong nhà chỉ còn vài đấu,người anh xót xa nói với người em rằng:
-Năm nay mất mùa cả làng đói kém,có đi vay
nữa cũng chẳng ai cho .Số thóc trong bồ , chỉ một mình em ăn dè sẻn cũng khó sống
nổi qua kỳ giáp hạt .Chi bằng để anh đi
đâu đó làm mướn kiếm thêm ... Nếu ông trời phù hộ không chết đói dọc đường,khi
nào lúa đồng vào hạt anh sẽ trở về...
Mấy ngày ,rồi mấy tháng sau,cứ chiều chiều người em lại ra
đứng ở đầu cầu Gạo nhìn về cuối con đường chợ Hạ ,phấp phỏng niềm hy vọng :anh
trai trở lại.Nhưng đến tận mùa lúa chín
năm ấy và cả mấy mùa lúa chín năm sau,người em cứ ra cầu Gạo chờ đợi ,mà người
anh vẫn chẳng thấy đâu...
Từ khi người anh ra đi ,một mình người em côi cút tiếp tục với công việc trồng cấy ,mò cua bắt ốc
nuôi thân.Gặp năm mưa thuận gió hòa,có bát ăn bát để ,nhớ lời cha dặn,chàng
trai lại miệt mài với đèn sách bút
nghiên gìn giữ nếp nhà.Nhưng đến năm người em bước sang tuổi 22,trời lại giáng
họa lũ lụt trắng đồng.Mảnh ruộng trũng
Láng Đông của cha mẹ để lại ngập sâu trong sóng nước suốt mấy tháng hè khiến
công sức cấy trồng cả vụ trôi xuống sông,xuống bể . Lại cạn thóc trong bồ.Lại
muối mặt vác rá đi vay.Cũng có người thương tình đỡ đần củ khoai bát gạo độ nhật.Nhưng
cũng có kẻ vừa xua tay từ chối vừa mỉa mai xóc óc câu vè:”Nhất sỹ nhì nông.Hết
gạo chạy rông .Nhất nông nhì sỹ...”
Đói khát,tủi hổ và cả nỗi khắc khoải phải
tìm lại người anh khiến chàng trai Nguyễn Công Vọng quyết lòng dứt áo xa làng
...Đó là năm Canh Ngọ(1810)-năm mà sử sách còn chép về một trận lũ lụt kinh
hoàng ở đồng bằng bắc bộ...
*
Xa
hương mấy chục năm trời
Suốt mấy năm,cái bóng liêu xiêu của người
anh khuất dần phía cuối con đường chợ Hạ
lúc chia tay luôn là nỗi ám ảnh người em
.Và cuộc đi này người em cũng đưa chân
theo con đường người anh đã đi :Đường cái quan qua chợ Hạ.Vừa đi vừa làm mướn
kiếm ăn.Vừa đi vừa dò lần tin anh...Đi mãi,đi mãi ,người em đã vào đến đất
Thanh Hóa.
Đó là một chiều mùa đông rét mướt.Người em dừng chân
trước một ngôi nhà ven làng gần biển. Thấy có chàng trai đứng co ro ở cổng ngập
ngừng như muốn bầy tỏ điều gì,chủ nhà sai cô con gái chừng 14 tuổi ra hỏi.
Chàng trai xin được vào nhà và đề nghị được làm mướn độ nhật.Ngắm gương mặt
khôi ngô sáng sủa,nghe lời ăn tiếng nói khoan hòa chừng mực của chàng trai lạ
,ông chủ nhà họ Phan chấp nhận lời đề nghị để anh ở lại giúp việc dỡ khoai mấy
ngày.Những ngày làm mướn,chàng trai Nguyễn
Công Vọng bắt đầu chiếm được cảm tình của ông chủ bởi tính hiền lành ,đức chịu
thương chụi khó của mình.Đã hết khoai để dỡ, chủ nhà ngỏ ý lưu khách ở lại giúp
việc làm đất ,trồng cấy vụ sau...
Thấm thoắt
mùa đông năm cũ sắp qua,mùa xuân năm mới sắp đến. Một ngày giáp Tết chủ nhà đưa
cho chàng trai chút ít tiền công khuyên anh đi chợ mua tấm vải về may bộ quần
áo mới.Đi cùng anh giúp việc mua vải là cô bé Nhàn 14 tuổi,con gái lớn của chủ
nhà.Trưa hôm ấy từ chợ về, không thấy anh chàng làm mướn và con gái mang theo vải
.Chủ nhà ngạc nhiên gặng hỏi con gái mới biết, đến chợ chàng trai kiên quyết từ
chối việc may sắm quần áo mới mà muốn giữ lại số tiền ít ỏi phòng khi phải rời
nơi này đi kiếm ăn nơi khác.Vậy mà chàng trai
vẫn bớt tiền ra mua một tờ giấy hồng điều,mấy tập giấy bản ,cây bút lông
và thỏi mực nho. Cả nhà chưa biết người làm mướn mua những thứ ấy làm gì
thì sau bữa cơm trưa,anh mài mực nắn nót viết lên tờ giấy hồng điều 3
chữ Hán khá to.Viết xong, chàng trai cung kính đưa cho ông chủ tờ giấy với lời
phân trần:
-Cháu còn sống được đến ngày hôm nay là nhờ
ân đức của ông bà . Vậy nên cháu xin được
tự tay viết dâng gia đình ta ba chữ ĐỨC LƯU QUANG gọi là chút quà mừng năm mới.
Rồi chàng
trai giải thích ý nghĩa của 3 chữ ấy thật khúc chiết.Cả nhà nhìn chàng trai với
ánh mắt vô cùng ngạc nhiên.Ông chủ cầm tờ giấy điều lên ngắm nghía hồi lâu rồi
buột miệng hỏi:
-Vậy thực
ra cháu là ai? Cháu không giống những người làm mướn vẫn qua lại
đây .Từ khi cháu đến ,bác đã cố gắng xét đoán ,nhưng đến hôm nay mới vỡ lẽ...
Chàng trai
vẫn khiêm nhường :
-Thật sự
cháu vẫn là người làm mướn.Chỉ có điều sức vóc cháu có hạn nên đã đi qua nhiều vùng đất mà không nhà nào muốn
mướn cháu lâu.Gia đình mình còn giữ cháu lại đến bây giờ là phúc cho cháu lắm rồi...
Ông chủ họ
Phan nhẹ nhàng:
-Anh không
muốn để lộ danh phận,ta cũng không ép .Nhưng ta muốn giữ anh ở lại đây thêm một
thời gian nữa vừa làm công vừa tranh thủ dạy chữ cho anh em con Nhàn và mấy đứa
trẻ con bác nó ,anh tính sao?
Chàng trai
quỳ xuống trước mắt ông chủ rưng rưng trả
lời:
-Ông bà cho ở
lại tiếp tục làm công, cháu vui một,lại được làm gia sư cho các em ,khiến cháu
vui mười...
Từ sau buổi
tối hôm đó,thân phận của chàng trai Nguyễn
Công Vọng bắt đầu thay đổi. Anh được mọi
người trong nhà ông chủ họ Phan đối xử như
thân thuộc và có ý vì nể. Đáp lại tình cảm của gia chủ anh chẳng những
siêng năng công việc ruộng vườn hơn mà còn dồn hết tâm sức vào việc dạy chữ cho
mấy đứa trẻ.
Học theo
cách của người cha dạy mình năm trước,anh tìm cách truyền thụ sao cho học trò vừa
hứng thú vừa nhớ lâu.Ví như ,khi dạy đến chữ Sơn anh vẽ ngọn núi 3 ngọn rồi giải
thích cách viết của người Hán theo lối tượng hình.Dạy đến chữ Hảo,anh nhấn mạnh
đến ý nghĩa của tình mẹ con và lý giải sự hình thành của chữ này gồm chữ mẫu và chữ tử đứng bên nhau theo lối hội
ý.Để dạy một chữ khác, anh kể một câu chuyện lịch sử khá thú vị,khiến trò phải
tròn mắt lắng nghe.Chuyện rằng,cậy thế nước lớn,trước khi vào chầu vua Đại Việt
,sứ giả bên tầu gửi đến triều đình bên
ta một câu đố gồm mấy dòng rắc rối và
ngông ngạo như sau:”Lưỡng nhật bình đầu nhật.Tứ sơn điên đảo sơn.Lưỡng vương
tranh nhất quốc.Tứ khẩu tung hoành giang.”Buổi tiếp sứ tầu ở dịch quán,trong
khi hắn đang dương dương tự đắc đòi quan triều Đại Việt giải câu đố hiểm hóc
hôm trước thì bất ngờ một sinh đồ Đại Việt
chừng hơn 10 tuổi bước ra nhúng tay vào chén trà viết lên bàn chữ Điền thật to.Rồi cậu bé giải thích lưu
loát cách chiết tự từ chữ Điền thành 2 chữ Nhật,4 chữ Sơn,2 chữ Vương và 4 chữ
Khẩu ...khiến sứ tầu dẫu bẽ mặt cũng không thể không buông một lời khen:Nước
Nam quả lắm người tài.
Vậy là thầy
chỉ dạy 1 chữ mà trò nhớ thêm 4 chữ cùng câu chuyện lịch sử thú vị và đầy ý
nghĩa...
Sau này sự
nghiệp dạy chữ của thầy đồ Nguyễn Công Vọng còn lưu truyền nhiều chuyện vui nữa
.Nhưng vào thời điểm ấy,nết ăn ở,sự hiểu biết của anh đã khiến ông chủ họ Phan
đã nghĩ đến một điều khác.
Một hôm,
khi trong nhà chỉ còn hai người ông ngỏ lời muốn nhận anh làm con nuôi và san
cho một vạt đất tự làm ăn tích vốn.Chàng trai nói lời cám ơn ông chủ nhưng chỉ
nhận làm con chứ quyết không nhận đất.Bởi lẽ trong lòng anh vẫn không lúc nào
nguôi nỗi nhớ về làng An Trì,nơi có mộ
phần của cha mẹ và ngôi nhà mà anh nghĩ người anh trai chắc đã trở về. Thấu tỏ
nỗi lòng của chàng trai,ông chủ họ Phan không nói đến chuyện tặng đất mà dự liệu
để anh sớm được trở lại quê hương.Nhưng cũng phải mất gần 4 năm gom góp vốn liếng,
ý nguyện của chàng trai Nguyễn Công Vọng mới trở thành hiện thực.Chuyến trở lại
quê hương lần nàycủa anh còn có ông chủ họ Phan đi cùng.Ông muốn biết thêm một
vùng đất và cũng vì muốn hiểu gốc tích của
chàng trai mà ông yêu quý và muốn gửi gắm điều thầm kín.
Mùa xuân
năm Giáp Tuất(1814) hai bác cháu khăn gói quả mướp, đằng đẵng
5 ngày đi bộ thì về đến An Trì. Dấu
ấn của những năm mất mùa vẫn còn in đậm trên mỗi nếp nhà, mỗi gương mặt người
làng.Ngôi nhà tranh vách đất của cha mẹ để lại đã trở nên hoang phế,cỏ dại mọc
đầy ,chuột bọ ,chim chóc biến thành nơi trú ngụ của chúng.Người anh thì vẫn bặt
vô âm tín.Nỗi đau nhà tan cửa nát chồng lên nỗi đau mất thêm người thân,khiến
chàng trai Nguyễn Công Vọng đành gạt nước
mắt ra đi lần nữa...Theo lời khuyên của
người cha nuôi ,anh trở lại Thanh Hóa.
Vẫn làng An Trì gắn bó suốt thời thơ bé. Vẫn con
đường cái chợ Hạ thân thuộc ngày nào.Vẫn dòng Vĩnh Tinh giang khi đầy khi vơi
... Vậy mà lần ra đi này,đôi chân sao thấy
nặng,con tim sao thấy đau,đôi mắt sao thấy xót...Đó là tâm trạng,là linh cảm đớn
đau mà mãi mấy chục năm sau,về lại quê hương lần thứ hai khi đã bước qua tuổi
60, ông lão Nguyễn Công Vọng mới kể lại
với con cháu ...
Nỗi đau lần
nữa xa làng của chàng trai Nguyễn Công Vọng lại là niềm vui của con cháu ông chủ họ Phan.Họ lại được anh dạy chữ,được
nghe anh kể chuyện gần ,chuyện xa và cả chuyện đời xưa. Người vui nhất chính là
cô bé Nhàn ,năm ấy vừa bước sang tuổi 18.Dẫu không dám nói ra nhưng cô đã thầm
yêu trộm nhớ người con trai làm mướn ở nhà mình từ sau buổi chợ Tết năm nào.Có
lẽ vì thế suốt mấy năm bao nhiêu chàng trai trong vùng đến cầu thân ,cô đều thờ
ơ.Bao nhiêu người nhờ mối manh xin cưới cô đều từ chối.Cô lặng lẽ chăm chút người
anh nuôi và âm thầm chờ đợi hết năm này qua năm khác.Cha mẹ cô biết điều ấy.
Chàng trai Nguyễn Công Vọng cũng cảm nhận được điều ấy.Nhưng phần vì mặc cảm
thân phận,phần vì niềm hy vọng mong manh sẽ có ngày trở về quê hương vẫn luôn
canh cánh khiến anh chưa thể vượt qua...
Cho đến
năm Canh Thìn(1820)bỗng dưng có chuyện xảy ra đối với cô Nhàn khiến anh không
thể cầm lòng.Một ngày xuân,theo lệnh của triều đình Huế,cả nước phải tổ chức lễ mừng vua Minh Mạng mới lên ngôi.Chị em nhà họ Phan được một phen tả tơi lúc len
vào xem hội làng bên .Trên đường về cô Nhàn xinh đẹp còn bị đám con trai trong
vùng xúm đến giữ chân buông lời trêu ghẹo.Trong lúc bí bách ,cô Nhàn đành chỉ
vào người anh nuôi đến “ phá vây” cho
mình mà nói rằng :
-Tôi là gái
đã có chồng...
Dứt lời
cô Nhàn ôm lấy anh Vọng khóc nức nở khiến đám con trai bẽ mặt mà lủi dần .Về đến
nhà, cô Nhàn chui vào trong buồng khóc thút thít một mình.Bữa tối ,mọi người gọi
thế nào cô cũng không chịu ra ăn.Biết được sự tình ,người mẹ buộc phải hỏi
chàng trai về mối lương duyên mà họ muốn xe cho anh cùng cô con gái.Chàng trai
chỉ còn biết thành kính nhận lời. Và họ đã nên vợ nên chồng từ mùa xuân năm đó.
Một năm sau người con trai đầu lòng của họ
chào đời tại ngôi nhà mới mà cả họ ngoại góp công góp của dựng cho.Chàng rể muốn
nhờ ông ngoại đặt tên.Mọi người trong nhà lại muốn thầy Vọng hay chữ chọn cho
bé một cái tên thật ý nghĩa.Mấy ngày sau,đứa trẻ đã đươc đặt tên là Nguyễn Xuân
Thanh với lời giải thích như sau : Cháu
mang tên vùng đất ân nghĩa xứ Thanh,còn
đệm của cháu là ước mơ về những điều tốt đẹp vĩnh hằng mà mùa Xuân đem đến.
Xuân nọ nối
xuân kia.Khi vòng lịch Hội trở lại năm Mậu Thân(1848) ,cũng là năm chàng trai
Nguyễn Công Vọng ngày nào biến thành ông lão Vọng 60 tuổi tròn.Nhiều người
trong các lứa học trò của ông ở vùng đất hẻo lánh Thanh Hóa đã đỗ đạt.Thời ấy dân trong vùng
truyền với nhau câu :”Học thầy khóa Vọng ,có lọng che đầu”.Đó là một lời khen ,là lòng ngưỡng mộ mà không
phải người thầy nào cũng có được.Thực ra
không phải ai học thầy khóa Vọng cũng ra làm quan để có lọng che đầu .Nhưng việc
học và đạo học để thành người có ích cho đời mà ông hằng ấp ủ đã thành hiện thực
ở nơi xa xôi này.
Cũng mùa
xuân năm 1848 ấy, nhìn người con trai cả thay mình dạy lứa học trò mới trong
nhà ,ông đã yên lòng để công bố với cả gia đình một quyết định mà ông nghiền ngẫm
từ rất lâu .Nhằm ngày Tết Nguyên tiêu ,ông tổ chức mâm cỗ cúng to hơn hẳn mọi
năm .Sau lễ khấn bái tổ tiên ,bên đông đủ các con các cháu ,ông chậm rãi kể hết
nguồn cơn từ thuở xa làng .Cuối cùng ông quay sang phía bà Nhàn ngậm ngùi mà
nói rằng:
-Có câu
:Cáo chết 3 năm quay đầu về núi...Đến con vật dấu chết cũng còn hướng về nơi nó
sinh ra huống hồ là con người.Đáng lẽ tôi phải trở về nơi chôn rau cắt rốn từ
nhiều năm trước.Nhưng ân nghĩa của bà ,của
mảnh đất này đã níu chân tôi lại.Nay ông bà ngoại các cháu không còn, tôi cũng
đã bước sang tuổi lão,nên không thể lân
khân được nữa...
Dừng lời một
lát nhìn mọi người, ông tiếp:
-Hai con
Thanh và Tịnh đã có vợ con,có nhà cửa ruộng vườn nên vẫn ở lại đây phụng dưỡng
mẹ,hương khói cho ông bà ngoại.Thày sẽ chỉ đưa em Đơi về cùng...
Ông nói đến
đây thì cả nhà òa lên khóc .Mấy đứa cháu nội cùng ùa lên ôm chân ông mà rằng:
-Chúng
cháu cũng muốn theo ông về quê ...
Đêm ấy cuộc
trò chuyện bàn bạc của cả nhà đến tận gà
gáy mới xong.Mấy ngày sau cuộc hồi hương của ông Nguyễn Công Vọng không chỉ có
anh con út 21 tuổi Nguyễn Xuân Đơi mà con thêm cậu bé 6 tuổi Nguyễn Xuân Uấn
,con người trai cả Nguyễn Xuân Thanh và cậu bé 4 tuổi Nguyễn Xuân Tuất ,con người
trai thứ hai Nguyễn Xuân Tịnh.
Khai
hoang mở xóm xây nền muôn Xuân
Lại có một sự trùng hợp đáng nhớ nữa .Đó là
cuộc thiên di của 4 người khởi thủy dòng họ mới Nguyễn Xuân về làng An Trì lại
trùng năm vua Tự Đức lên ngôi thay vua Thiệu Trị(1848).Nếu tính từ năm vua Gia
Long lên ngôi (1802)đến thời vua Tự Đức,đất nước dẫu vẫn rất nghèo nàn lạc hậu
nhưng đã liền một dải và có một triều đình thống nhất tổ chức bộ máy cai trị từ
trung ương tới địa phương .Ngoại trừ một số vùng xảy ra khởi nghĩa nông dân
,đây vẫn là giai đoạn lịch sử được ghi
trong chính sử là “Nhà Nguyễn thời kỳ độc
lâp”tạm yên hàn , người dân tạm an cư ,việc đi lại giữa các vùng cũng đã bớt
khó khăn cách trở.Từ Thanh Hóa về quê Vĩnh Lại , Hải Dương (đơn vị hành chính
được chia lại từ năm Tân Mão 1831 ,thời vua Minh Mạng)đã có một vài trạm xe ngựa
đón đưa khách bộ hành.Nhờ thế, thay vì cuốc bộ năm ngày lần về quê mấy chục năm
trước,lần này ông Nguyễn Công Vọng và con cháu khi được lên xe ,khi xuống đi bộ ...cho đến lúc chạm bàn chân
lên cầu chợ Gạo là trọn ba ngày.Lại nữa,về quê lần này,ông cháu họ mang theo số
tiền đủ để làm lại nhà tậu lại ruộng tạo dựng cơ nghiệp lâu dài...
Quá nửa
người làng An Trì không biết ông cháu họ
là ai.Chỉ mươi người tuổi ngoài 60 mãi mới nhận ra ôngVọng ngày xưa.Cũng phải
thôi ,đã gần bốn chục năm trời, người cùng thời với ông còn sống đã coi là thọ.Những
người sinh vào những năm ông ra đi cũng đã bước qua tuổi trung niên huống hồ lứa
trẻ mới lớn sau này.Cứ như là chuyện cổ xưa kể về ông Từ Thức một ngày lạc bước
qua cửa Thần Phù trở lại trần gian...Thế nên,nền đất của ngôi nhà xưa cha mẹ để
lại người khác đến ở ông Vọng cũng không nỡ đòi.Thửa ruộng Láng Đông mấy anh
em đã từng cấy trồng bây giờ thành của
người khác ông cũng không dám hỏi. Đành phải dắt con,dắt cháu lên quan kể lại sự
tình và xin được khai hoang dựng nhà ,mở đất làm ăn.May sao quan là người thấu hiểu nhân tình thế thái đã bút phê theo
ý nguyện của ông.Vậy là khu đất sa bồi hoang hóa giữa xóm trên và xóm dưới của
làng An Trì được cấp cho mấy ông cháu mới hồi hương tự khai khẩn dựng nhà ,vỡ
ruộng.
Là thầy đồ
lại có chút hiểu biết về địa lý ,ông Vọng đã chọn khu đất cao ráo vuông vắn
hình cái ấn để phát cỏ,chặt cây đắp bờ vun luống trồng khoai .Đồng thời ông mua
tre làm cột,đắp đất làm tường,buộc rạ lợp mái dựng ngôi nhà nhỏ ngay bên mảnh
vườn ấy. Ngôi nhà đầu tiên của bốn ông con mở hướng đông nam , ngắm mặt trời mọc
,lắng tiếng cá quẫy từ cái vụng hình ông trăng khuyết tạo bởi dòng sông Vĩnh
Tinh trước cửa vọng về . Người dân trong làng quen gọi cái vụng nước này dại Gốc
Sắn.Khi ấy dại vẫn còn um tùm cỏ sậy nhưng cũng là chốn cá tôm tụ về nương náu
sinh sôi .Nhận thấy dại Gốc Sắn chính là nơi có thể tìm nguồn sống những ngày đầu
trở lại quê nhà, ông Vọng tìm chỗ buộc chiếc vó bè nho nhỏ ,chọn luồng nước triều
lên xuống đặt cái đó ,cái đăng . Sáng sáng,mỗi khi gà gáy sang canh anh con út
bơi thuyền đi đổ đó,cũng là lúc người cha ra hạ vó đợi may...Chiều chiều ,lúc
gà về chuồng hai cha con lại tiếp tục công việc như buổi sáng...Ngày qua ngày
công việc đánh bắt cá tôm ở dại Gốc Sắn đã giúp cha con ông có tiền mua gạo
,mua thóc giống gieo cấy ở những vạt ruộng bên sông mới được vỡ hoang...Loài
lúa ré chụi nước hợp những chân ruộng trũng,hạt to có râu ,nấu cơm vừa thơm vừa
dẻo do ông Vọng chọn gieo từ ngày ấy còn được mọc ở nhiều dại khác của làng An
Trì đến mãi sau này.
Thoắt đó mà
đã 7 năm ông Nguyễn Công Vọng dắt con ,dắt cháu về làng.Đó là khoảng thời gian
mà người trong vùng chứng kiến mảnh đất hoang giữa làng An Trì đổi
thay từng ngày .Không thể tính được công sức mà 4 ông cháu đã bỏ ra để
khai sinh cho mảnh đất này.Chỉ biết rằng từ một vùng gò cao xen vũng thấp cỏ dại
lút đầu đã thành những chân ruộng, mảnh vườn tươi tốt quanh năm,hoa thơm quả ngọt
bốn mùa .Đến mùa xuân năm Ất Mão ,ông cháu cụ Vọng dựng thêm hai ngôi nhà tre
ba gian xinh xắn gần ngôi nhà cũ.Một ngôi là tổ ấm của anh Nguyễn Xuân Đơi và
cô con dâu út Đỗ Thị Kim,người huyện Thanh Hà.Một ngôi là nơi ông mở lớp dạy học.Học
trò đầu tiên là hai cháu nội,rồi đến trẻ trong làng .Dần dà nhiều người trong
vùng biết tiếng cụ đồ Vọng cũng đưa con cháu đến xin được làm môn sinh.
Không chỉ dạy chữ cho con trẻ mà thầy đồ Vọng còn giang
tay giúp đỡ những người khó khăn cơ nhỡ như để tri ân cha mẹ nuôi thuở trước.
Trong số những mảnh đời đáng thương được thầy đồ Vọng giúp đỡ qua lúc cơ hàn đã
có người trở thành cháu nuôi trong nhà
như các anh :Nguyễn Xuân Đuấn,Nguyễn Xuân Tưng,Nguyễn Xuân Từng,Nguyễn Xuân Tộ
. Đầu năm Đinh Tỵ có ông Đoàn Kim,lính của triều đình nhà Nguyễn vừa giải ngũ
,nghe tin cụ Vọng là người nghĩa hiệp, nhân đức đã bỏ quê xa tìm đến An Trì xin
được khai khẩn đất hoang , làm ruộng dựng nhà ở gần mấy ông cháu.Vậy là đến năm
ấy giữa làng An Trì có 4 nóc nhà,với hai
dòng họ sinh sống.
Một
sáng từ chợ Hạ về đến cầu Gạo ngắm cảnh
vật,ruộng vườn và 4 nóc nhà quây quần bên nhau cụ Vọng bỗng nảy ý vui.Mấy hôm
sau cụ lên quan sở tại cùng với bản sớ xin được ghi vào địa bạ của làng An Trì
thêm một xóm mới với cái tên nôm: Xóm Giữa.Đồng thời cụ cũng xin quan cho phép
dựng một ngôi đình ở phía tây giáp với xómTrên làm nơi tế lễ hội họp của dân,
thờ cúng Thần hoàng làng .Quan đã bút phê đồng ý với cụ .Vậy là xóm Giữa làng
An Trì bắt đầu có tên từ năm Đinh Tỵ (1857).
Một năm
sau -năm cụ Nguyễn Công Vọng tròn 70 tuổi- ngôi
đình nhỏ mang tên đình Trên cũng được dựng lên.Có nơi thờ cúng và tế lễ
,cụ Vọng bàn với các bô lão trong làng chọn ngày Xuân mồng 10 tháng 3 và ngày
Đông 24 tháng 11 hàng năm là ngày Khánh tiết Thần hoàng làng.Cho đến tận ngày
nay làng An Trì vẫn giữ nếp 3 xóm từ ngày xa xưa ,vẫn còn dấu vết của ngôi đình
Trên ... nhưng có lẽ ít người biết sự tích ra đời của ngôi xóm giữa làng gắn với
cuộc đời chìm nổi của người đã sáng nghiệp dòng họ Nguyễn Xuân cách nay đã 155
năm...
Ngoài việc
dựng ngôi đình ,cụ Vọng còn chọn đất xây mấy cái miếu vừa nhằm đánh dấu địa giới
của xóm, vừa với tâm nguyện được các vị
thổ thần cai quản mảnh đất phù hộ độ trì, che chở cho cư dân sinh sống ở
đây.Trong số những ngôi miếu xây từ ngày ấy có miếu Ông Đống Sành nằm bên đường
cái chợ Hạ,dưới một gốc cây,nổi tiếng linh thiêng,trở thành nơi dừng chân cầu
phúc của khách thập phương qua lại.Ngôi miếu ấy sau này còn được trồng thêm 2
cây bồ đề gai ,an lạc đến cuối thế kỷ 20 mới bị san đi làm mặt bằng cho con đường
bê tông chạy giữa làng bây giờ.
Tận đến
khi tuổi đã qua kỳ thất thập , cụ Vọng vẫn rất tận tâm với công việc của xóm
làng .Cụ không chỉ được con cháu trong nhà , các lứa học trò khắp vùng kính trọng
mà còn được người trong làng tin yêu.Ngay
như cô bé Nguyễn Thị Diêm,nổi tiếng xinh đẹp nết na của dòng họ Nguyễn Đức
chỉ vì ước muốn được trở thành cháu dâu cụ Vọng mà đã lần lượt chối từ lời cầu
hôn của bao chàng trai giỏi giang trong làng ,ngoài tổng.Đám cưới của anh Nguyễn
Xuân Uấn và người đẹp họ Nguyễn Đức được tổ chức rất trọng thể vào mùa xuân năm
Quý Hợi(1863).Một năm sau cụ Vọng đã có
chắt nội.Đó là một bé trai khôi ngô tuấn tú,đúng như mơ ước của cụ.Chắt
đã được cụ chọn đặt tên là: Nguyễn Xuân Ước.Đó là năm Giáp Tý (1864),cũng là
năm hai chí sỹ Phạm Phú Thứ ,Nguyễn Trường Tộ du học ở phương tây về dâng vua Tự Đức kế sách canh tân đất nước theo
gương Nhật Bản,Thái Lan ...Nhưng những chủ trương cải cách ấy đã bị các đình thần
thủ cựu trong triều cho là bàn nhảm ,nói càn và nhà vua cũng không chấp nhận.Trong
khi trên thế giới nhiều nước đã chuyển sang thời kỳ tư bản chủ nghĩa với sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật thì Việt Nam vẫn chìm trong đêm trường
phong kiến , ngày càng nghèo nàn, lạc hậu và cuối cùng bị rơi vào ách thống trị
của thực dân Pháp bằng 2 hòa ước Quý Mùi
năm1883 và hòa ước Pa-tơ- nốt năm 1885 ngay sau khi vua Tự Đức qua đời.
Tin vui cậu
bé Nguyễn Xuân Ước ra đời bay đến tận xứ Thanh.Cuối năm ấy ông nội Nguyễn Xuân
Thanh của bé lặn lội tìm về An Trì .Đây cũng là lần đầu tiên ông biết quê cha đất
tổ và được gặp lại những người ruột thịt
sau 16 năm đằng đẵng chia xa . Buổi tối
đầu tiên,hai cha con nằm bên nhau nghẹn ngào tâm sự thâu canh. Người bố kể bao
chuyện đổi thay của gia đình ở Thanh Hóa:Rằng mẹ Hạ đã sinh thêm em gái Nguyễn Thị Nhỡ và em trai Nguyễn
Xuân Đạt .Mấy năm mùa màng tươi tốt,bố vừa làm nông vừa mở lớp dạy học cho hơn
hai chục học trò nên trong nhà đã có chút của ăn của để.Rằng mẹ Hạ hằng đêm vẫn
thổn thức nhớ con .Nhiều lần mẹ Hạ vừa khóc vừa hỏi :không biết ở ngoài ấy mọi
người có được đủ ăn đủ mặc ,con trẻ có được học hành ?
Sau gần một
tháng lưu lại ở An Trì,cuối tháng Chạp ông Thanh mới trở lại Thanh Hóa .Chuyện
về người cha đầy nghị lực mở đất lập nên một xóm quê trù phú, nền nếp giữa làng
An Trì,chuyện về chú Đơi đã yên bề gia thất,chuyện về cô con dâu dòng họ Nguyễn
Đức xinh đẹp nết na,về đứa cháu nội kháu khỉnh,chuyện về anh Tuất ,con trai cả
ông Tịnh cũng đã ra dáng một chàng trai... ông Thanh kể đi kể lại suốt những
ngày Xuân khiến cụ Nhàn ,bà Hạ,vợ chồng ông Tịnh và con cháu trong nhà còn thấy
vui hơn Tết...
Nhưng
niềm vui chưa kịp lắng thì nỗi buồn bỗng nhiên ập đến.Giữa tháng 3 ,tin dữ từ
An Trì đưa đến:Anh Uấn bỗng mắc trọng bệnh .Vây là ông Thanh lại phải vội vã
lên đường.Ông về đến An Trì vào ngày 23 tháng 3 năm Ất Sửu (1865)thì 2 ngày sau
người con trai trút hơi thở cuối cùng ở tuổi 21,để lại người vợ trẻ và cậu con
trai chưa đầy một tuổi.Ông Thanh chỉ thể ở lại An Trì 4 tháng rồi phải trở về xứ Thanh ,nơi cụ Nhàn và mọi người
trong ấy vẫn đang khắc khoải ngóng tin
anh Uấn ngoài này từng ngày,từng giờ.
Sự ra đi quá sớm của người cháu đích tôn khiến
một lần nữa công việc gia đình lại đè nặng trên đôi vai ở tuổi 77 của cụ Nguyễn Công Vọng.Ngoài việc
lo toan gìn giữ nếp nhà cụ Vọng vẫn giành nhiều tâm sức để dạy dỗ cháu Tuất và
chắt Ước.May thay cháu dâu là người chịu thương chịu khó và nhất mực trung
trinh thờ chồng nuôi con nên đã an ủi và đỡ đần được cụ rất nhiều.
...Chuyện
kể rằng ,góa chồng ở tuổi 20 , lại có sắc
đẹp hơn người khiến cô Nguyễn Thị Diêm vẫn được nhiều cậu ấm con nhà giầu và một
vài chức sắc trong vùng theo đuổi.Có người đã nhờ đến mối manh xin cưới hỏi
nhưng người góa phụ trẻ này quyết chẳng nhận lời.Thậm chí mỗi khi có công có việc
phải ra khỏi làng cô Diêm đều xin với cụ Vọng cho hai người em nuôi Xuân Từng và Xuân Tộ đi cùng. Một lần cô Diêm
xuống chợ Hạ,có gã lý trưởng giầu có lẵng nhẵng bám theo tán tỉnh. Thấy người đẹp
chỉ cúi mặt không hề đáp lời ,gã toan dở trò sàm sỡ.Nào ngờ Xuân Từng và Xuân Tộ
như từ trên trời rơi xuống đánh cho gã lý trưởng háo sắc một phen nhừ tử.Trận đòn
đánh kẻ cậy tiền, cậy quyền trêu ghẹo người đẹp giữa chợ Hạ hôm ấy chẳng những
loang đi khắp vùng mà còn được thêu dệt
thêm một vài tình tiết ly kỳ khiến người từ đời ấy kể mãi và người đời nay vẫn
còn lưu truyền...
Còn nhiều
chuyện rất cảm động về nết ăn ở,cách dạy dỗ con cháu và việc đối nhân xử thế mà người cháu dâu thảo
hiền của cụ Nguyễn Công Vọng để lại tiếng thơm cho đời .Chính vì thế khi qua đời
ở tuổi 51,bà Nguyễn Thị Diêm đã được triều đình nhà Nguyễn phong tặng 4 chữ
vàng:TRUNG HẬU TIẾT TRINH.
Xin được
trở lại với nhân vật chính của câu chuyện là cụ Nguyễn Công Vọng mà tôi đang kể.Từ
sau cái chết của người cháu đích tôn,nỗi buồn và gánh nặng gia đình đã khiến sức
khỏe của cụ Vọng bắt đầu giảm sút.Dẫu vậy 4 năm sau ,ở tuổi 81 ,cụ vẫn dựng
thêm một ngôi nhà mới để cưới vợ cho cháu Tuất .Mấy tháng sau tin vui ấy cũng đến
được Thanh Hóa .Cuối năm sau (1870 ), ông Nguyễn Xuân Tịnh mới có thể thu xếp về
quê mừng cho con trai.Hành lý mà người con thứ hai của cụ Vọng mang về làm quà
là những túi cá biển chim ,thu ,nhụ, đé... phơi khô .Thì ra vợ chồng ông Tịnh
đã đóng được thuyền đánh cá , quanh năm
lênh đênh mưu sinh ở ngoài biển cả.Hai người con của họ là Nguyễn Thị Mùi và
Nguyễn Xuân Định ở nhà được bà Nhàn trông nom và ngày ngày sang bác Thanh học
chữ cùng đám trẻ trong vùng...
Cũng như
bác cả,về lại xứ Thanh,chuyện về người thân và xóm làng ông Tịnh kể hoài,kể mãi .Thay vì đằng đẵng
gần 20 năm của lần về thứ nhất ,hai ông ấn định 5 năm sau sẽ lại về quê. Nhưng
cuối tháng Giêng năm 1874,nghe tin cụ Vọng ốm nặng,hai anh em ông vội vã lên đường
ra Bắc. Đó là lần cuối cùng hai ông còn có cơ hội đượcgần gũi chuyện trò với
người cha kính yêu.Ngày 16 tháng Hai năm
ấy cụ Nguyễn Công Vọng rời xa trần thế
,để lại những khoảng trống vắng mênh mông trong lòng con cháu và bao lứa
học trò trong vùng.Đám tang của cụ được cử hành rất trọng thể.Người đến dự lễ
tiễn đưa cụ về cõi Tiên đứng chật đường cái chợ Hạ ,từ Đống Sành đến tận mả
Voi...
Chào đời
vào năm Mậu Thân của thế kỷ trước (1788) , về cõi vĩnh hằng nhằm năm Giáp Tuất
của thế kỷ sau (1874),cụ Nguyễn CôngVọng đã sống trong một giai đoạn kỳ lạ nhất
của lịch sử nước nhà.Giai đoạn xuất hiện
người anh hùng áo vải Quang Trung như một vì sao sáng chói nhưng lại nảy nòi
hai ông vua mà người đời sau thường gọi là hai kẻ “cõng rắn cắn gà nhà”: Duy Kỳ
(Lê Chiêu Thống) và Nguyễn Ánh (Gia Long) .Giai đoạn mà cụ phải đau lòng chứng
kiến sự lên xuống của gần chục ông vua của 3 triều đại ngắn ngủi.Giai đoạn mà
trong cung đình vua quan mặc sức sống xa hoa trụy lạc,còn ngoài dân trăm họ cơ
cực lầm than .Năm Gia Long đoạt lại quyền trị vì đất nước từ triều Tây
Sơn(1802-1819)cũng là thời điểm cậu bé Nguyễn Công Vọng lần lượt mất cha ,mất mẹ
,mất anh ,mất nhà cửa ruộng vườn cuối cùng phải rời bỏ quê hương . Trong hai
mươi năm ở ngôi , Minh Mạng kịp tuyển vài trăm cung tần mỹ nữ,kịp đẻ 78 con
trai,64 con gái , thậm chí vì sợ nhiều vợ quá, khí uất trong cung tắc, trời
giáng họa thiên tai,hạn hán vua đành thả bớt 100 cung tần mỹ nữ về quê...Vị vua
có tới 142 người con ấy không thể ngờ được rằng chỉ hai đời sau ,dòng dõi chính
thống của ông ta đã bị tuyệt tự.Tự Đức,con Thiệu Trị, cháu nội của Minh Mạng,lấy
vợ từ năm 15 tuổi,sau đó còn cưới thêm 103 mỹ nữ nữa nhưng chẳng ai có thể sinh
con với ông ta.Sau khi Tự Đức qua đời ,nước Nam ta rơi vào ách đô hộ của thực dân Pháp với hàng
loạt ông vua bù nhìn ,đoản mệnh.Có ông lên ngôi vẻn vẹn 3 ngày thì bị truất
ngôi và bỏ đói đến chết(Dục Đức).Có ông tại vị được 5 tháng thì bị xử uống thuốc
độc tự vẫn (Hiệp Hòa 6/1883-11/1883).Có ông ngồi ngai vàng được 8 tháng thì bị
viên quan phụ chính, tình nhân của dưỡng mẫu sai thái y dâng thuốc... “chết”(Kiến
Phúc 12/1883-8/1884).Có ông được đưa lên 1 năm thì bị thực dân Pháp đày đi châu
Phi (Hàm Nghi 8/1884-8/1885)...
Điểm qua
đôi dòng lịch sử bi thương của đất nước thời kỳ ấy ,người viết bài ký này thử
đưa ra lời lý giải về sự mất liên lạc rất
lạ lùng của những người ruột thịt dòng họ Nguyễn Xuân ở đất Thanh Hóa từ sau những
năm cuối thế kỷ 19 .Trong cuốn tư liệu viết bằng chữ Hán mà cụ Nguyễn Xuân Ước
để lại ,có chép thêm một lần hai ông Nguyễn Xuân Thanh và Nguyễn Xuân Tịnh
về An Trì để giỗ đầu cụ Nguyễn Công Vọng vào tháng 2 năm 1875.Lần ấy trở lại
Thanh Hóa mỗi ông bốc một bát hương từ quê cha mang về trong ấy lo việc thờ cúng
ông bà cha mẹ .Cuốn tư liệu cũng có đoạn viết về những ngày cuối đời của cụ
Phan Thị Nhàn . Ấy là, vào cuối tháng 2 năm 1876,có người từ Thanh Hóa ra Bắc
bán mật ong mang theo thư của ông Thanh và ông Tịnh gửi cho ông Đơi báo tin mẹ
( cụ Phan Thị Nhàn )vừa qua đời ở tuổi 81 .Trong lá thư viết bằng chữ Hán ấy,hai
ông có kể lại những tâm sự khổ đau của người mẹ phải xa chồng,xa cháu con mấy
chục năm trời mà không thể gặp lại, dẫu chỉ một lần ,dẫu chỉ một người...
Sau những
dòng ghi chép về lá thư từ Thanh Hóa vào năm 1876 đến nay không còn bất kỳ một
thông tin nào về con cháu của cụ Vọng ở
trong ấy nữa.Những trang đầu của cuốn tư liệu có ghi chép địa chỉ của ông Thanh
,ông Tịnh nhưng đã bị mờ,bị rách tả tơi.Cố gắng lắm bác Nguyễn Xuân Vĩnh mới
ghép giấy đọc được vài từ như :địa cư ... Thanh Hóa tỉnh...làng...cách bể Đông
Hải ...tam.
Vậy là những
người mang huyết thống của dòng họ Nguyễn Xuân ở Thanh Hóa tựa như bóng chim
tăm cá đã hơn 100 năm.Nhưng vì sao họ biệt
tăm và hiện họ đang ở đâu thì không sao hiểu nổi. Như trên tôi đã đề cập ,chuyện
bặt tăm, bặt tin này chỉ là do hoàn cảnh lịch sử gây nên.Bởi lẽ từ sau khi cụ Vọng
và cụ Nhàn mất, đất nước chìm đắm trong ách nô dịch, đói nghèo ,ba kỳ loạn lạc liên miên hơn bẩy chục năm trời.Có
thể mấy gia đình họ Nguyễn Xuân ở xứ Thanh sa sút không đủ tiền bạc để về quê ,
hoặc không dám về quê vì sợ bom rơi ,đạn lạc,sợ trộm cướp dọc đường.Cũng có thể
vùng đất ven biển ấy trở thành chiến địa, cư dân phải chạy loạn tứ phương.Hoặc
giả những năm nạn đói hoành hành , người
còn ,người mất...
Cũng
không loại trừ khả năng cụ Thanh, cụ Tịnh có để lại địa chỉ quê hương cho con
cháu nhưng những người thuộc thế hệ sau
chưa thể tìm ra.Ngày ấy An Trì trang thuộc tổng Hu Trì huyện Vĩnh Lại tỉnh
Hải Dương.Còn từ sau ngày hòa bình lập lại(1954) ,tên An Trì vẫn cũ nhưng đã trở
thành một trong 5 thôn của xã Thanh Lương, huyện Vĩnh Bảo,tỉnh Kiến An,rồi sau
sát nhập vào thành phố Hải Phòng .
Và cũng giống
như tình cảnh trong bài thơ Sông Lấp của
cụ Tú Xương:
Sông kia rày đã
nên đồng
Chỗ làm nhà cửa
,chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch
bên tai
Giật mình lại tưởng
tiếng ai gọi đò
Dòng sông
Vĩnh Tinh bây giờ cũng không còn.Các địa danh khác như : dại Gốc Sắn ,chợ Cầu Gạo
,đình Trên,miếu ông Đống Sành ,đường cái Chợ Hạ ...tựa hồ đã bị biến mất trong
bộ nhớ của hầu hết công dân An Trì từ thế
hệ 8X thế kỷ 20 trở đi.Vậy thì mấy trang bút ký này cũng coi như một lúc nào đó
tôi chợt giật mình hoài niệm chuyện ngày xửa ,ngày xưa mà tự thốt lên.Có thể
con cháu dòng họ Nguyễn Xuân ở An Trì hôm nay và mai sau có người sẽ đọc.Cũng
có thể khi tôi đăng bài này lên trang mạng in-tơ-net của mình, ai đó là hậu duệ
của hai cụ Nguyễn Xuân Thanh,Nguyễn Xuân Tịnh ở Thanh Hóa ngày xưa sẽ đọc được.Và nếu được như vậy thì điều kỳ lạ
nhất sẽ xảy ra ở chính đất An Trì
trang,nơi mộ phần của cụ tổ Nguyễn Công Vọng hiện vẫn ngào ngạt thơm hương,nơi
vẫn còn nguyên dấu tích của ngôi nhà do người sáng nghiệp dòng họ Nguyễn
Xuân dựng từ năm 1848 ,sửa lại năm 1863
với bài thơ vịnh của cụ Nguyễn Xuân Ước vào năm cuối thế kỷ19 như sau:
Năm gian nhà gỗ lại
pha tre
Phương hướng
nhìn xem đất đỗ Nghè
Mã tẩu đường
tiền là án chính
Bút thần tấn
hậu thị dân tề
Càn long dẫn
mạch tiền như núi
Tốn thủy nhập
hoài bạc có xe
Phương hướng
nhà ta thiên dĩ định
Cháu con đều
được vẻ vang ghê.
N X H
* Tác giả bài bút ký là nhà thơ,nhà biên kịch điện ảnh,Hội
viên Hội Nhà văn Việt Nam(chắt nội của cụ Ước,hậu duệ7 đời của cụ Vọng) hiện
đang sinh sống và làm việc tại Hà Nội.ĐT:0903437273 *Email:hai_anthanh@yahoo.com.vn *Webside
trên google: nguyenxuanhai.nghesy.vn
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)